31/07/2024
1. Mở đầu
Ở Việt Nam, án lệ chính thức được thừa nhận và áp dụng từ năm 2015 theo Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán và sau đó được thay thế bởi Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán. Tuy nhiên, việc áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử của tòa án hiện vẫn còn nhiều vướng mắc. Do đó, việc tìm hiểu kinh nghiệm về điều kiện áp dụng án lệ của một số quốc gia trên thế giới, từ đó gợi ý kinh nghiệm cho Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Điều kiện áp dụng án lệ của một số quốc gia trên thế giới
Bài viết tổng hợp một số điều kiện áp dụng án lệ ở một số quốc gia trên thế giới thuộc hai hệ thống: hệ thống Dân luật (Civil Law) với các nước tiêu biểu như Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức…; hệ thống Thông luật (Common Law) với các nước tiêu biểu như Hoa Kỳ, Anh, Úc...
Một là áp dụng án lệ khi chưa có luật nhưng tòa án vẫn phải xử để bảo đảm công lý. Đây thường là điều kiện áp dụng của các nước theo hệ thống Dân luật.
Hai là áp dụng án lệ khi luật không rõ ràng, thẩm phán phải tự mình nhận thức, giải thích luật và thể hiện nhận thức trong bản án. Đây cũng thường là điều kiện áp dụng của các nước theo hệ thống Dân luật.
Ba là áp dụng án lệ khi đã có luật nhưng phát sinh tình huống mà luật chưa dự liệu hết. Đây cũng thường là điều kiện áp dụng của các nước theo hệ thống Dân luật. Do khi giải quyết vụ việc, tình huống mới phát sinh mà luật chưa dự liệu được nên thẩm phán phải tìm và áp dụng án lệ cho tình huống mới đó.
Bốn là vụ việc thuộc các trường hợp bắt buộc áp dụng án lệ. Đây thường là điều kiện áp dụng của các nước theo hệ thống Thông luật. Việc bắt buộc áp dụng án lệ ở các nước theo hệ thống Thông luật chỉ đặt ra với hai điều kiện: (i) có sự phù hợp của án lệ với vụ việc cần giải quyết, tức là án lệ được áp dụng khi vụ án đang xét xử, vụ án có án lệ và có sự giống nhau cơ bản giữa vụ án đó với án lệ; (ii) có sự phù hợp của án lệ với pháp luật và với thực tiễn thực hiện quan hệ pháp luật.
Năm là vụ việc thuộc các trường hợp không bắt buộc áp dụng án lệ nhưng tòa án/thẩm phán xét thấy nên/cần áp dụng án lệ.
3. Gợi ý cho Việt Nam
Để áp dụng án lệ nhằm giải quyết vụ việc chưa có điều luật quy định, về nguyên tắc, tòa án ở Việt Nam phải xem xét tính khả thi của việc áp dụng tập quán, tương tự pháp luật và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự trước. Chỉ khi những nguồn pháp luật này không thể áp dụng, tòa án mới được áp dụng án lệ để giải quyết vụ việc.
Để án lệ đã có được áp dụng trong giải quyết vụ việc đang xử lý, tòa án phải xem xét để án lệ đảm bảo 03 điều kiện đủ: (i) điều kiện về hiệu lực theo thời gian của án lệ; (ii) điều kiện về sự phù hợp giữa án lệ với pháp luật và thực tiễn thực hiện quan hệ pháp luật; (iii) điều kiện về sự phù hợp giữa án lệ với vụ việc đang xử lý.
Tham khảo kinh nghiệm về điều kiện áp dụng án lệ của các nước trên thế giới, trước hết, Việt Nam cần có quy định rõ ràng, thống nhất về tính bắt buộc áp dụng án lệ của tòa án, theo đó xem xét sửa đổi, bổ sung nội dung “Án lệ có hiệu lực bắt buộc, được Tòa án các cấp thống nhất áp dụng trong xét xử để bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau” vào quy định của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.
Thứ hai, Việt Nam cần có quy định rõ ràng, thống nhất về điều kiện cần và đủ để tòa án/thẩm phán thực hiện áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử. Đối với các điều kiện cần, Việt Nam xem xét bổ sung trường hợp cho phép tòa án áp dụng án lệ khi đã có luật nhưng phát sinh tình huống mà luật chưa dự liệu hết hoặc áp dụng án lệ khi luật chưa quy định cụ thể, rõ ràng, thẩm phán phải tự mình nhận thức, giải thích luật và thể hiện nhận thức trong bản án. Điều này sẽ giúp án lệ có thể phát huy được giá trị tự thân là “làm rõ quy định của pháp luật còn có nhiều cách hiểu khác nhau”. Đối với các điều kiện đủ, không nên quy định cứng về điều kiện có hiệu lực của án lệ sau 30 ngày kể từ ngày công bố, mà nên quy định theo hướng án lệ có hiệu lực ngay kể từ ngày công bố, có như vậy án lệ mới phát huy vai trò đảm bảo các vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự nhau phải được giải quyết như nhau. Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về cách hiểu “tình huống pháp lý tương tự” để các thẩm phán có cách hiểu thống nhất trong quá trình viện dẫn, áp dụng án lệ, nhất là khi áp dụng điều kiện đủ về sự phù hợp giữa án lệ với vụ việc đang xử lý.
4. Kết luận
Án lệ ra đời để khắc phục tính khái quát hóa cao và tính không thể dự liệu hết các tình huống sẽ xảy ra trong tương lai của luật thành văn. Tuy nhiên, việc áp dụng án lệ không thể tùy tiện mà cần tuân thủ những điều kiện nhất định. Do quan điểm về án lệ của các nước còn có sự khác nhau nên mỗi nước sẽ có những điều kiện áp dụng án lệ khác nhau, song các điều kiện áp dụng đó có ý nghĩa quan trọng giúp hạn chế hai tình huống tiêu cực sẽ phát sinh khi áp dụng án lệ là áp dụng một cách tùy tiện hoặc áp dụng một cách quá thận trọng. Việt Nam có thể cân nhắc tham khảo kinh nghiệm của các nước trong bổ sung quy định về tính bắt buộc áp dụng án lệ cũng như bổ sung quy định về điều kiện cần và điều kiện đủ trong áp dụng án lệ để đảm bảo những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau.
(Toàn văn bài viết đã được đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội số 6/2024, trang 3-10, 51).